
- Sự phụ thuộc lớn của châu Á vào các chuyến hàng dầu khí từ Trung Đông qua Eo biển Hormuz khiến Nhật Bản và Hàn Quốc đặc biệt dễ bị tổn thương, vì 75% lượng dầu nhập khẩu của Nhật Bản và hơn 70% lượng dầu nhập khẩu của Hàn Quốc phải đi qua tuyến đường này.
- Tiến độ chậm chạp trong lĩnh vực năng lượng sạch làm gia tăng rủi ro, khi năng lượng tái tạo của Hàn Quốc chỉ chiếm 9% tổng hợp điện năng so với mức trung bình 33% của OECD và Nhật Bản phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch nhiều hơn bất kỳ quốc gia G7 nào.
- Trung Quốc và Ấn Độ đã thúc đẩy sản xuất năng lượng gió, mặt trời và khí đốt trong nước – Trung Quốc dẫn đầu tăng trưởng toàn cầu về năng lượng tái tạo vào năm 2024 và Ấn Độ đã bổ sung thêm 30 GW điện sạch vào năm ngoái – nhưng họ vẫn nhập khẩu một lượng lớn dầu và LNG từ Trung Đông.
- Đông Nam Á được dự đoán sẽ trở thành nước nhập khẩu LNG ròng vào năm 2032 và IEA cảnh báo chi phí nhập khẩu dầu của ASEAN có thể tăng từ 130 tỷ đô la vào năm 2024 lên hơn 200 tỷ đô la vào năm 2050 nếu không có các biện pháp năng lượng sạch mạnh mẽ hơn.
Sự phụ thuộc của châu Á vào dầu khí Trung Đông – và quá trình chuyển đổi sang năng lượng sạch tương đối chậm – khiến khu vực này dễ bị gián đoạn các chuyến hàng qua Eo biển Hormuz, một điểm yếu chiến lược nổi bật trong cuộc chiến giữa Israel và Iran.
Iran nằm trên eo biển này, nơi xử lý khoảng 20% lượng dầu và khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) của thế giới. Bốn quốc gia – Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản và Hàn Quốc – chiếm 75% lượng nhập khẩu đó.
Theo phân tích của nhóm nghiên cứu Zero Carbon Analytics, Nhật Bản và Hàn Quốc phải đối mặt với rủi ro cao nhất, tiếp theo là Ấn Độ và Trung Quốc. Tất cả đều chậm chạp trong việc mở rộng quy mô sử dụng năng lượng tái tạo.
Vào năm 2023, năng lượng tái tạo chỉ chiếm 9% trong cơ cấu năng lượng của Hàn Quốc – thấp hơn nhiều so với mức trung bình 33% của các thành viên khác của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD). Cùng năm đó, Nhật Bản phụ thuộc nhiều hơn vào nhiên liệu hóa thạch so với bất kỳ quốc gia nào khác trong Nhóm Bảy, hay G7.
Một thỏa thuận ngừng bắn trong cuộc chiến tranh kéo dài 12 ngày giữa Israel và Iran dường như đang được duy trì, làm giảm khả năng xảy ra rắc rối hiện tại. Nhưng các chuyên gia cho biết cách duy nhất để chống lại sự bất ổn kéo dài là giảm sự phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu và đẩy nhanh quá trình chuyển đổi của châu Á sang các nguồn năng lượng sạch trong nước.
Murray Worthy, một nhà phân tích nghiên cứu tại Zero Carbon Analytics, cho biết: “Đây là những rủi ro rất thực tế mà các quốc gia nên nhận thức được – và nên suy nghĩ về vấn đề an ninh năng lượng và kinh tế của mình”.
Nhật Bản và Hàn Quốc dễ bị tổn thương
Trung Quốc và Ấn Độ là những nước mua dầu mỏ và khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) lớn nhất khi đi qua điểm nghẽn tiềm tàng tại Eo biển Hormuz, nhưng Nhật Bản và Hàn Quốc lại dễ bị tổn thương hơn.
Nhật Bản phụ thuộc vào nhiên liệu hóa thạch nhập khẩu cho 87% tổng mức sử dụng năng lượng của mình và Hàn Quốc nhập khẩu 81%. Theo Ember, một tổ chức nghiên cứu năng lượng toàn cầu độc lập thúc đẩy năng lượng sạch, Trung Quốc chỉ phụ thuộc vào 20% và Ấn Độ là 35%.
Worthy cho biết: “Khi bạn kết hợp tất cả những yếu tố đó lại – tỷ lệ năng lượng đi qua eo biển và lượng dầu khí mà họ phụ thuộc – thì đó chính là lúc bạn thấy Nhật Bản thực sự vươn lên dẫn đầu về mặt dễ bị tổn thương”.
Sam Reynolds thuộc Viện Kinh tế Năng lượng và Phân tích Tài chính cho biết, ba phần tư lượng dầu nhập khẩu của Nhật Bản và hơn 70% lượng dầu nhập khẩu của Hàn Quốc – cùng với một phần năm lượng LNG của nước này – đi qua eo biển này. Cả hai quốc gia đều tập trung nhiều hơn vào việc đa dạng hóa các nguồn nhiên liệu hóa thạch hơn là chuyển sang năng lượng sạch.
Nhật Bản vẫn có kế hoạch lấy 30 – 40% năng lượng từ nhiên liệu hóa thạch vào năm 2040. Nước này đang xây dựng các nhà máy LNG mới và thay thế các nhà máy cũ. Hàn Quốc có kế hoạch lấy 25,1% điện từ LNG vào năm 2030, giảm từ mức 28% hiện nay và giảm xuống còn 10,6% vào năm 2038.
Để đạt được mục tiêu phát thải carbon ròng bằng 0 vào năm 2050, cả hai quốc gia phải tăng cường đáng kể việc sử dụng năng lượng mặt trời và năng lượng gió. Theo nhóm nghiên cứu Agora Energiewende, điều đó có nghĩa là phải bổ sung thêm khoảng 9 gigawatt năng lượng mặt trời mỗi năm cho đến năm 2030. Nhật Bản cũng cần thêm 5 gigawatt năng lượng gió mỗi năm và Hàn Quốc cần khoảng 6 gigawatt.
Chính sách năng lượng của Nhật Bản không nhất quán. Nước này vẫn trợ cấp xăng và dầu diesel, đặt mục tiêu tăng nhập khẩu LNG và hỗ trợ các dự án dầu khí ở nước ngoài. Điện gió ngoài khơi bị cản trở bởi các rào cản về quy định. Nhật Bản có mục tiêu về khí hậu, nhưng chưa đặt ra thời hạn cụ thể để cắt giảm khí thải của ngành điện.
“Nhật Bản đã làm đủ chưa? Không, họ chưa làm. Và những gì họ làm không thực sự là tốt nhất”, Tim Daiss, tại APAC Energy Consultancy, cho biết, trích dẫn chương trình tăng cường sử dụng nhiên liệu hydro làm từ khí đốt tự nhiên của Nhật Bản.
Giá điện thấp của Hàn Quốc cản trở lợi nhuận của các dự án năng lượng mặt trời và gió, làm nản lòng đầu tư, một “yếu tố chính” hạn chế năng lượng tái tạo, Kwanghee Yeom của Agora Energiewende cho biết. Ông cho biết giá cả công bằng, hỗ trợ chính sách mạnh mẽ hơn và các cải cách khác sẽ giúp đẩy nhanh việc áp dụng năng lượng sạch.
Trung Quốc và Ấn Độ đã làm nhiều hơn – nhưng vẫn còn khoảng cách
Trung Quốc và Ấn Độ đã có động thái bảo vệ mình khỏi những cú sốc từ việc thay đổi giá năng lượng toàn cầu hoặc gián đoạn thương mại.
Trung Quốc dẫn đầu tăng trưởng toàn cầu về gió và mặt trời vào năm 2024, với công suất phát điện tăng lần lượt 45% và 18%. Nước này cũng đã thúc đẩy sản lượng khí đốt trong nước ngay cả khi trữ lượng của nước này đã cạn kiệt.
Bằng cách sản xuất nhiều điện hơn tại nhà từ các nguồn sạch và sản xuất nhiều khí đốt hơn trong nước, Trung Quốc đã có thể giảm lượng nhập khẩu LNG, mặc dù nước này vẫn là nước nhập khẩu dầu lớn nhất thế giới, với khoảng một nửa trong số hơn 11 triệu thùng mỗi ngày mà nước này nhập khẩu đến từ Trung Đông. Nga và Malaysia là những nhà cung cấp lớn khác.
Ấn Độ phụ thuộc rất nhiều vào than và đặt mục tiêu tăng sản lượng than lên khoảng 42% từ nay đến năm 2030. Nhưng việc sử dụng năng lượng tái tạo đang tăng nhanh hơn, với 30 gigawatt điện sạch bổ sung được đưa vào sử dụng vào năm ngoái, đủ để cung cấp điện cho gần 18 triệu hộ gia đình ở Ấn Độ.
Vibhuti Garg thuộc Viện Kinh tế Năng lượng và Phân tích Tài chính cho biết, bằng cách đa dạng hóa các nhà cung cấp với nhiều mặt hàng nhập khẩu hơn từ Hoa Kỳ, Nga và các quốc gia khác ở Trung Đông, công ty đã giảm bớt được phần nào rủi ro.
“Nhưng Ấn Độ vẫn cần có động lực lớn để phát triển năng lượng tái tạo nếu muốn thực sự đảm bảo an ninh năng lượng”, bà nói.
Rủi ro cho phần còn lại của Châu Á
Reynolds thuộc Viện Kinh tế Năng lượng và Phân tích Tài chính cho biết, việc phong tỏa Eo biển Hormuz có thể ảnh hưởng đến các quốc gia châu Á khác và việc xây dựng năng lực phát điện tái tạo của họ sẽ là “biện pháp phòng ngừa quan trọng” chống lại sự biến động vốn có khi nhập khẩu dầu và khí đốt.
Theo Trung tâm Năng lượng ASEAN tại Jakarta, Indonesia, Đông Nam Á đã trở thành nước nhập khẩu dầu ròng vì nhu cầu ở Malaysia và Indonesia đã vượt xa nguồn cung. Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á gồm 10 quốc gia vẫn xuất khẩu nhiều LNG hơn nhập khẩu do sản lượng của Brunei, Indonesia, Malaysia và Myanmar. Nhưng nhu cầu tăng có nghĩa là khu vực này sẽ trở thành nước nhập khẩu LNG ròng vào năm 2032, theo công ty tư vấn Wood Mackenzie.
Việc sử dụng năng lượng tái tạo không theo kịp nhu cầu ngày càng tăng và sản lượng dầu khí đang chững lại vì các mỏ dầu cũ đang cạn kiệt.
Cơ quan Năng lượng Quốc tế cảnh báo rằng chi phí nhập khẩu dầu của ASEAN có thể tăng từ 130 tỷ đô la vào năm 2024 lên hơn 200 tỷ đô la vào năm 2050 nếu các chính sách năng lượng sạch mạnh mẽ hơn không được ban hành.
Reynolds cho biết: “Năng lượng sạch không chỉ là yêu cầu cấp thiết đối với khí hậu mà còn là yêu cầu cấp thiết đối với an ninh năng lượng quốc gia”.

Bạn muốn kiếm tiền từ thị trường Forex, Vàng, Chứng Khoán Mỹ,…? Bạn muốn trở thành một nhà đầu tư chuyên nghiệp trong lĩnh vực này nhưng chưa biết bắt đầu từ đâu? Đừng lo, Blog cá nhân Tài Chính Forex – TaiChinhForex.com được tạo ra để chia sẻ những thông tin hữu ích và cần thiết nhất cho người mới bắt đầu trong lĩnh vực tài chính Forex cho dù bạn đang sống ở quốc gia nào trên thế giới. Xem thêm phần Giới thiệu về Tài Chính Forex để hiểu hơn về trang web này!